Khái niệm về ân điển trong Kinh Thánh Ân_điển

Kinh Thánh Hebrew

Từ חסד (checed)[2] trong tiếng Hebrew được Kinh Thánh của người Do Thái dùng để chỉ ân điển có nghĩa là lòng nhân từ. Khái niệm căn cốt này đặt trọng tâm vào lòng thuỷ chung và tính nhẫn nại là những đức hạnh cần thiết để duy trì mối quan hệ theo giao ước, mặc cho sự sa ngã thường xuyên bởi con dân của giao ước mà Kinh Thánh Hebrew là lời chứng cho giao ước này, tức là giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và tuyển dân của Ngài.

Các khái niệm khác được dùng trong Kinh Thánh Hebrew để miêu tả ân điển của Thiên Chúa là một nhóm từ có nguyên tố căn bản là hanam, nghĩa là tình yêu tự nguyện; và haram, ngụ ý sự thương xót và lòng trắc ẩn, bao hàm một hành động khởi phát từ lòng thương xót mà phục hồi mối quan hệ đã bị phá vỡ. Tất cả những khái niệm này đều được các tiên tri của dân tộc Do Thái sử dụng để miêu tả sự chọn lựa của Thiên Chúa dành cho dân Israel như là tuyển dân của ngài và lòng nhẫn nại khiến Ngài không hề lìa bỏ họ mặc dù dân tộc này thường xuyên vi phạm giao ước.

Tân Ước

Từ ân điển trong Tân Ước được dịch từ tiếng Hi Lạp charis (χαρις), nghĩa là "sự ban cho", trong nguyên nghĩa là một điều đem đến sự vui thỏa, ngọt ngào, hữu ích và thú vị.[3] Chúa Giê-xu không dùng từ này nhưng trong Phúc âm Lu-caPhúc âm Giăng, từ này thường được dùng chỉ riêng cho ngài. Tuy vậy, qua các dụ ngôn của Chúa Giê-xu được ký thuật trong các sách phúc âm có thể nhận thấy Chúa Giê-xu đã giảng dạy khái niệm về ân điển. Hơn nữa, ngài cũng nhấn mạnh rằng ân điển là sự ban cho, là đặc ân của Thiên Chúa.

Dụ ngôn Người làm công trong vườn nho[4] kể về một chủ vườn nho (theo cách giải thích truyền thống của Cơ Đốc giáo, là biểu trưng cho Thiên Chúa) thuê mướn một số người làm việc cho mình từ lúc sáng sớm, sau đó lại thuê thêm một số nữa, rồi vào lúc chỉ còn một giờ đồng hồ là kết thúc ngày làm việc, ông chủ lại thuê thêm một số người làm công là những người chờ đợi suốt ngày không được ai thuê mướn, rồi thì ông trả cho mỗi người số tiền công bằng nhau. Khi những người làm công suốt cả ngày tỏ vẻ bất bình, chủ vườn giải thích với họ rằng, "Ta há không có phép dùng của cải ta theo ý muốn ta sao?....... Những kẻ rốt sẽ trở nên đầu và kẻ đầu sẽ trở nên rốt là như vậy".[5]

Tương tự, câu chuyện nổi tiếng Người con trai hoang đàng được ký thuật trong Phúc âm Lu-ca,[6] theo cách hiểu của hầu hết tín hữu Cơ Đốc, hàm chứa sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu về ân điển. Một người con trai đòi phần mình trong của thừa kế để rồi tiêu xài hoang phí cho đến đồng xu cuối cùng. Sau khi sống trong sự khốn khổ, người con liều trở về nhà mà không dám mong đợi ân huệ của cha mình. Song, người cha đã mừng rỡ chào đón đứa con hoang đàng trước sự bất bình của con trai trưởng, người vẫn luôn kề cận và tận tuỵ hầu việc ông.

Suốt trong dòng lịch sử Cơ Đốc giáo, nhiều người nắm bắt được sợi chỉ xuyên suốt các câu chuyện kể này của Chúa Giê-xu: Ấy chính là ân điển của Thiên Chúa đã làm đảo lộn mọi ý niệm cố hữu của con người về công đức, về điều mà họ cho là mình xứng đáng được hưởng, và về những gì mà họ tin là phần thưởng dành cho những nỗ lực của họ.

Hai khía cạnh của ân điển

Tân Ước trình bày hai phương diện của ân điển. Một mặt, ân điển được ban cho từ Thiên Chúa để tha thứ mọi tội lỗi, mặt khác ân điển không giải thoát con người khỏi trách nhiệm phải sống ngay thẳng. Chúa Giê-xu đã nói,

"Các ngươi đừng tưởng ta đến để phá bỏ luật pháp hay lời tiên tri; Ta đến không phải để phá song để làm cho trọn. Vì ta nói thật cùng các ngươi, đang khi trời đất chưa qua đi thì một chấm một nét trong luật pháp cũng không qua đi được cho đến khi mọi sự được trọn. Vậy, ai huỷ một điều cực nhỏ nào trong những điều răn này, và dạy người ta làm như vậy, thì sẽ bị xưng là cực nhỏ trong nước thiên đàng. Vì ta phán cùng các ngươi rằng, nếu sự công bình của các ngươi không trỗi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng."[7]

Phao-lô viết các thư tín

Về sau Phao-lô cũng viết:"Ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Thiên Chúa. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình."[8] Theo Phao-lô, sự cứu rỗi, cũng giống tiền công người chủ cho những người làm công trong chuyện ngụ ngôn kể trên, là sự ban cho của Thiên Chúa, là đặc ân của ngài. Nếu con người làm nên sự cứu rỗi bởi công đức của mình, con người có thể kiêu hãnh vì nhờ gắng công mà trở nên thánh khiết. Khi ấy, ân điển của Thiên Chúa ban cho sẽ không còn giá trị so với những nỗ lực của con người.

Một câu chuyện kể của Chúa Giê-xu được chép trong chương 25 của Phúc âm Matthew có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề. Một ông chủ trước khi đi xa, gọi các tôi tớ đến mà phó thác tài sản của mình. Một người được giao năm ta lâng (đơn vị tiền tệ của người Do Thái thời ấy), người kia hai, người khác một, tuỳ theo khả năng của mỗi người. Khi chủ đi vắng, người nhận năm ta lâng và người nhận hai ta lâng dùng số tiền ấy để đầu tư và làm chúng tăng gấp đôi trong khi người được giao một ta lâng đem tiền chôn xuống đất. Khi chủ trở về, hai người đầu đem nộp lại cho chủ số tiền đã sinh lợi. Chủ nói: "Tốt lắm, các ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập các ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi". Nhưng đối với tôi tớ thứ ba, tức là người đã chôn giấu số tiền được giao, chủ tức giận mà nói rằng:"Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia! Sao ngươi không đưa bạc của ta cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời. Vậy, hãy lấy ta lâng của người này mà cho người có mười ta lâng. Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì cũng cất luôn điều họ có nữa. Còn tên đầy tớ vô ích này, hãy quăng ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng".[9]

Dụ ngôn trên giúp chúng ta hiểu được sự hài hoà giữa ân điển và việc làm. Tất cả tôi tớ đều nhận lãnh tiền từ tay chủ, người chủ đã giao cho họ tiền bạc của mình. Vì vậy, không ai trong vòng họ có thể kiêu hãnh về số tiền mình đang giữ, như lời của Sứ đồ Phao Lô, chúng ta được cứu bởi ân điển, không phải bởi việc làm, để không ai có thể khoe mình. Dù vậy, những người này phải có trách nhiệm sử dụng món quà ân điển như thế nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Không chịu làm điều ấy là tội lỗi, như lời của Gia-cơ,"Đức tin không có việc làm thì chết."[10] Khi một người tiếp nhận ân điển sẽ có một sự thay đổi triệt để trong nội tâm – từ bỏ lối sống tội lỗi và trải nghiệm sự tái sinh để thể hiện đức tin trong nếp sống mới. Gia-cơ xem đây là dấu hiệu của đức tin thật. Ân điển là sức mạnh giúp tín hữu khước từ tội lỗi, theo đuổi nếp sống thánh khiết, và làm các việc lành. Đây là một phép thử: không có những điều này có nghĩa là ân điển chưa hề chạm đến lòng họ. Như thế, theo giáo huấn của Gia-cơ, việc lành là kết quả tất yếu của trải nghiệm được cứu rỗi.